------- |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc --------------- |
Số: 02/GĐ-TANDTC
|
Hà Nội, ngày 19 tháng 9 năm 2016
|
Để
bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật
trong việc giải quyết các vụ án hành chính, vụ việc dân sự, Tòa án nhân dân tối
cao có ý kiến về một số
vấn đề vướng mắc như sau:
Theo quy
định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 3 Luật tố tụng hành chính năm 2015 thì quyết định
hành chính là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính được hiểu như sau:
“1.
Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước ban hành hoặc người có
thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành quyết định về vấn đề cụ thể trong hoạt động
quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể.
2.
Quyết định hành chính bị kiện là quyết định quy định tại khoản 1 Điều này mà
quyết định đó làm phát
sinh, thay đổi, hạn chế, chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân
hoặc có nội dung làm phát sinh nghĩa vụ, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp
của cơ quan, tổ chức, cá nhân.”
Theo quy
định tại khoản 16 Điều 3 Luật đất đai năm 2013 thì: “Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất”.
Căn cứ
vào các quy định nêu trên thì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là quyết định
hành chính; nếu thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật
tố tụng hành chính năm 2015 thì là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính.
Căn cứ
vào khoản 1 và khoản 4 Điều 83 Luật tố tụng hành chính năm 2015, trường hợp Tòa
án đã yêu cầu đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ và ấn định thời gian giao nộp
nhưng đương sự không nộp hoặc nộp không đầy đủ tài liệu, chứng cứ do Tòa án yêu
cầu mà không có lý do chính đáng thì Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ mà đương sự đã giao nộp và Tòa án đã
thu thập theo quy định tại khoản 2 Điều 84 của Luật này để giải quyết vụ án.
Theo quy
định tại khoản 2 Điều 133 Luật tố tụng hành chính năm 2015, trường hợp sau khi
có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm, đương sự mới giao nộp
tài liệu, chứng cứ mà Tòa án đã yêu cầu đương sự giao nộp trước đó thì đương sự
phải chứng minh lý do của việc chậm giao nộp tài liệu, chứng cứ. Nếu lý do chậm
giao nộp tài liệu, chứng cứ là chính đáng thì Hội đồng xét xử chấp nhận việc
giao nộp tài liệu, chứng cứ đó. Nếu đương sự nêu lý do nhưng lý do không chính đáng thì Tòa án không chấp nhận
việc chậm giao nộp tài liệu, chứng cứ đó, nhưng phải lập luận việc không chấp
nhận tài liệu, chứng cứ đó trong bản án, quyết định của Tòa án. Tuy nhiên, cần
lưu ý trường hợp tài liệu, chứng cứ đã giao nộp chưa đảm bảo đủ cơ sở để giải quyết vụ án thì Thẩm phán, Hội đồng
xét xử yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ hoặc tự mình xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ
để làm rõ các tình tiết của vụ án.
Trường hợp
đương sự chứng minh được việc
chậm giao nộp chứng cứ là có lý do chính đáng không thuộc trường hợp hoãn phiên
tòa quy định tại Điều 162 Luật tố tụng hành chính năm 2015. Tuy nhiên, Luật tố
tụng hành chính năm 2015 quy định quyền tiếp cận chứng cứ để bảo đảm tranh tụng;
do đó, trường hợp đương sự chứng
minh được việc chậm giao nộp chứng cứ là có lý do chính đáng mà thuộc trường hợp
quy định tại các điểm c, d, đ và e khoản 1 Điều 187 Luật tố tụng hành chính năm
2015 thì Hội đồng xét xử quyết định tạm ngừng phiên tòa.
Trường hợp
này, Tòa án phải giải thích, hướng dẫn cho đương sự là họ có nghĩa vụ thông báo
cho các đương sự khác biết về việc họ đã giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án
và yêu cầu đương sự đó thực hiện đúng nghĩa vụ thông báo để đương sự khác liên
hệ với Tòa án thực hiện quyền tiếp cận tài liệu, chứng cứ.
Trường hợp
có tài liệu, chứng cứ chưa được thông báo cho đương sự thì Tòa án thực hiện việc
thông báo cho họ biết để họ thực hiện quyền tiếp cận tài liệu, chứng cứ đó.
Theo quy
định tại khoản 2 Điều 3 Luật tố tụng hành chính năm 2015 thì quyết định hành
chính bị kiện là quyết định quy định tại khoản 1 Điều này mà quyết định đó làm
phát sinh, thay đổi, hạn chế, chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ
chức, cá nhân hoặc có nội dung làm phát sinh nghĩa vụ, ảnh hưởng đến quyền, lợi
ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Do đó, nêu quyết định đó ảnh hưởng
đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác thì họ có quyền khởi kiện quyết định
hành chính đó.
Theo quy
định tại khoản 3 và khoản 5 Điều 60 Luật tố tụng hành chính năm 2015, trường hợp
người bị kiện là Ủy ban nhân dân hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân thì Chủ tịch Ủy
ban nhân dân chỉ được ủy quyền cho Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân đại diện, Phó
Chủ tịch Ủy ban nhân dân không được ủy quyền lại cho người thứ ba tham gia tố tụng.
Theo quy
định tại Điều 5 Luật khiếu nại thì người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại có
trách nhiệm phải giải quyết khiếu nại đúng thời hạn pháp luật quy định; trường
hợp hết thời hạn giải quyết mà không giải quyết là không thực hiện đúng nhiệm vụ,
công vụ. Hành vi không giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật gây ảnh
hưởng đến việc thực hiện quyền của công dân; bởi vậy, theo quy định tại khoản 3
và khoản 4 Điều 3 Luật tố tụng hành chính năm 2015 thì hành vi không giải quyết
khiếu nại nêu trên là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính.
Trường hợp
một người khởi kiện quyết định hành chính tại Tòa án, đồng thời đề nghị Tòa án
xem xét hành vi không giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính đó của
người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì Tòa án cần giải thích cho họ biết
họ có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án hoặc khiếu nại đến người có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại; việc lựa chọn phải được thực hiện theo quy định
tại Điều 33 Luật tố tụng hành chính năm 2015; nếu họ lựa chọn khởi kiện tại Tòa
án thì cần xác định đối tượng khởi kiện trong vụ án là quyết định hành chính và
khi xét xử, thẩm quyền của Hội đồng xét xử được thực hiện theo quy định tại Điều
193 Luật tố tụng hành chính năm 2015.
Trường hợp
người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đã giải quyết khiếu nại
nhưng không ban hành quyết định giải quyết khiếu nại mà dưới hình thức khác
(như thông báo, kết luận, công văn v.v...) và văn bản đó đáp ứng các điều kiện
quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 3 Luật tố tụng hành chính năm 2015 thì văn
bản đó là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính.
Căn cứ
khoản 3 Điều 60 Luật tố tụng hành chính năm 2015; khoản 1 và khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số
104/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của Quốc hội về việc thi hành Luật tố tụng hành
chính; khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 02/2016/NQ-HĐTP ngày 30-6-2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng
dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của
Quốc hội về việc thi hành Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 104/2015/QH13
ngày 25-11-2015 của Quốc hội về việc thi hành Luật tố tụng hành chính thì đối với
các vụ án hành chính được Tòa án thụ lý trước ngày 01-7-2016, đã có quyết định
đưa vụ án ra xét xử nhưng kể từ ngày 01-7-2016 Tòa án mới mở phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm thì phải áp dụng
khoản 3 Điều 60 Luật tố tụng hành chính năm 2015 về người đại diện theo ủy quyền
trong tố tụng hành chính.
Đối với
trường hợp trước ngày 01-7-2016, người bị kiện là cơ quan, tổ chức hoặc người đứng
đầu cơ quan, tổ chức ủy quyền cho người khác không phải là cấp phó của mình đại
diện thì kể từ ngày 01-7-2016 Tòa án cần yêu cầu cơ quan, tổ chức hoặc người đứng
đầu cơ quan, tổ chức đó chấm dứt ủy quyền trong tố tụng hành chính đối với người
được ủy quyền trước đó và có văn bản ủy quyền cho cấp phó của mình đại diện
theo quy định tại khoản 3 Điều 60 Luật tố tụng hành chính năm 2015.
Về
nguyên tắc thì trong thời gian tạm ngừng phiên tòa, Thẩm phán có thể tham gia
giải quyết các vụ việc khác. Luật tố tụng hành chính năm 2015 đã bỏ quy định về
nguyên tắc xét xử liên tục.
Khoản 2
Điều 124 Luật tố tụng hành chính năm 2015 quy định ngay sau khi nhận được khiếu
nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện, Chánh án Tòa án phải phân công một
Thẩm phán xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị. Luật tố tụng hành chính năm
2015 không quy định Thẩm phán đã trả lại đơn khởi kiện thì không được giải quyết
khiếu nại; tuy nhiên, để bảo đảm tính khách quan thì nên phân công cho Thẩm
phán khác xem xét, giải quyết.
Về
nguyên tắc, quyết định giải quyết khiếu nại nếu đáp ứng các điều kiện quy định
tại khoản 1 và khoản 2 Điều 3 Luật tố tụng hành chính năm 2015 thì được coi là quyết định hành chính thuộc đối tượng
khởi kiện vụ án hành chính.
Trường hợp
cần phải yêu cầu cơ quan, người
có thẩm quyền xem xét, xử lý văn bản hành chính, hành vi hành chính liên quan đến
quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện thì căn cứ vào khoản 12
Điều 38, khoản 3 Điều 193 Luật tố tụng hành chính năm 2015, Thẩm phán, Hội đồng
xét xử báo cáo, đề nghị Chánh án Tòa án đang giải quyết vụ án đó có văn bản yêu
cầu cơ quan, người có thẩm
quyền xem xét, xử lý văn bản hành chính đó.
Trương hợp
phát hiện văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án
hành chính mà có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật
của cơ quan nhà nước cấp trên thì căn cứ vào khoản 13 Điều 38, khoản 4 Điều 112
Luật tố tụng hành chính năm 2015, Thẩm phán, Hội đồng xét xử báo cáo, đề nghị
Chánh án kiến nghị với cơ quan, cá nhân có thẩm quyền xem xét, sửa đổi, bổ sung
hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật,
văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên theo quy định của Luật
này.
Trường hợp
khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai về bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất mà có yêu cầu Tòa án xem xét về
giá bồi thường thì Tòa án căn cứ vào quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, mục đích
thu hồi đất, giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất để giải quyết vụ án mà
không được tiến hành định giá giá trị quyền sử dụng đất.
Có
phải mọi vụ việc dân sự có liên quan đến quyết định hành chính thì Tòa án đều
phải đưa cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền đã ban hành quyết định tham gia
tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không?
Điều 34
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định về thẩm quyền của Tòa án đối với quyết
định cá biệt của cơ quan, tổ
chức:
“1.
Khi giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án có quyền hủy quyết định cá biệt trái pháp
luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc
dân sự mà Tòa án có nhiệm vụ giải quyết.
2.
Quyết định cá biệt quy định tại khoản 1 Điều này là quyết định đã được ban hành
về một vấn đề cụ thể và được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể. Trường hợp vụ việc dân sự có liên quan đến quyết
định này thì phải được Tòa án xem xét trong cùng một vụ việc dân sự đó.
3.
Khi xem xét hủy quyết định quy định tại khoản 1 Điều này, Tòa án phải đưa cơ quan, tổ chức hoặc người có
thẩm quyền đã ban hành quyết định tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan.
Cơ
quan, tổ chức, người
có thẩm quyền đã ban hành quyết định phải tham gia tố tụng và trình bày ý
kiến của mình về quyết định
cá biệt bị Tòa án xem xét hủy.
4. Thẩm
quyền của cấp Tòa án giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp có xem xét việc hủy quyết định
cá biệt quy định tại khoản 1 Điều này được xác định theo quy định tương ứng của
Luật tố tụng hành chính về thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án
nhân dân cấp tỉnh.”
Theo quy
định nêu trên thì chỉ có những văn bản là quyết định cá biệt trái pháp luật của
cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự trong vụ việc dân sự mà Tòa án có nhiệm vụ giải quyết mới bị Tòa án
xem xét hủy (những văn bản không phải là quyết định hành chính cá biệt thì
không thuộc đối tượng điều chỉnh của Điều này).
Khi giải
quyết vụ việc dân sự có liên quan đến quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức
thì Tòa án phải xem xét, đánh giá về tính hợp pháp của quyết định cá biệt đó.
Trường hợp
quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự và phải hủy quyết định đó mới bảo đảm giải quyết đúng đắn vụ việc dân
sự mà việc hủy quyết định đó không làm thay đổi thẩm quyền giải quyết vụ việc
dân sự thì Tòa án đang giải quyết vụ việc dân sự tiếp tục giải quyết và xem xét
hủy quyết định đó.
Trường hợp
việc xem xét hủy quyết định đó dẫn đến thay đổi thẩm quyền giải quyết vụ việc
dân sự xác định theo quy định tương ứng của Luật tố tụng hành chính về thẩm quyền
của Tòa án nhân dân cấp tỉnh thì Tòa án nhân dân cấp huyện đang thụ lý giải quyết
vụ việc dân sự phải chuyển vụ việc cho Tòa án nhân dân cấp tỉnh giải quyết và
xem xét hủy quyết định đó.
Ví dụ 1:
Ông A khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện X tỉnh Y yêu cầu Tòa án giải quyết buộc
ông B phải trả lại quyền sử dụng đất mà trước đó ông A cho ông B mượn. Khi giải
quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện X nhận thấy trong thời gian mượn đất, ông B
đã có hành vi gian dối làm thủ tục để được Ủy ban nhân dân huyện
X cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; để giải quyết yêu cầu đòi lại quyền sử
dụng đất của ông A thì phải xem xét hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp
cho ông B và phải đưa Ủy ban nhân dân huyện X tham gia tố tụng với tư cách người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trường hợp này, thẩm quyền của cấp Tòa án giải
quyết vụ việc dân sự có xem xét việc hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được
xác định theo khoản 4 Điều 32 Luật tố tụng hành chính. Do vậy, Tòa án nhân dân
huyện X phải chuyển vụ án dân
sự nêu trên cho Tòa án nhân dân tỉnh Y giải quyết và xem xét hủy giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất.
Trường hợp
khi giải quyết vụ việc dân sự có liên quan đến quyết định cá biệt nhưng không cần
thiết phải hủy quyết định cá biệt đó và việc không hủy quyết định đó vẫn đảm bảo
giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự thì Tòa án đang giải quyết vụ việc dân sự tiếp
tục giải quyết.
Ví dụ 2:
Ông A, bà B là các con của cụ D, cụ E khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện X tỉnh
Y yêu cầu Tòa án giải quyết chia thừa kế tài sản là quyền sử dụng đất của cụ D,
cụ E. Khi còn sống, cụ D và cụ E đã được Ủy ban nhân dân huyện X cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất. Trường hợp này, khi giải quyết vụ án tranh chấp về thừa
kế tài sản không cần thiết phải xem xét hủy giấy chứng nhận quyền sử đất đã cấp
cho cụ D, cụ E nên Tòa án nhân dân huyện X tiếp tục giải quyết vụ án.
Trên đây
là giải đáp một số vướng mắc về Luật tố tụng hành chính, Bộ luật tố tụng dân sự
đã được Quốc hội khóa XIII, kỳ hợp thứ 10 thông qua để các Tòa án nghiên cứu,
tham khảo trong quá trình triển khai thi hành và thụ lý, giải quyết các vụ việc
thuộc thẩm quyền. Quá trình thực hiện, nếu có khó khăn, vướng mắc thì đề nghị
phản ánh về Tòa án nhân dân tối cao để có hướng dẫn kịp thời.
Nơi nhận: - Các TAND và TAQS; - Các đơn vị thuộc TANDTC; - Ủy ban Tư pháp của Quốc hội; - Ủy ban Pháp luật của Quốc hội; - Văn phòng Chủ tịch nước; - Văn phòng Chính phủ; - Ban Nội chính Trung ương; - Viện kiểm sát nhân dân tối cao; - Bộ Tư pháp; - Bộ Công an; - Các đồng chí PCA TANDTC; - Các Thẩm phán TANDTC; - Lưu: VP, Vụ PC và QLKH. |
CHÁNH ÁN
Nguyễn Hòa Bình |