Kính gửi:
|
- Các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp;
- Các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao. |
Để triển khai, thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ
sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 (sau đây gọi là Bộ luật Hình sự năm
2015) và Nghị quyết số 41/2017/QH14 về việc thi hành Bộ luật Hình sự số
100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 và về hiệu lực thi hành của
Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự
số 99/2015/QH13, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam số 94/2015/QH13 (sau đây gọi
là Nghị quyết số 41), Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các Tòa án nhân dân, Tòa
án quân sự các cấp và các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao trong quá trình
giải quyết vụ án hình sự và thi hành án hình sự cần lưu ý một số vấn đề sau
đây:
1. Kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2018 (ngày Bộ luật Hình sự năm 2015 có hiệu lực
thi hành), khi xét xử sơ thẩm,
xét xử phúc thẩm, xét xử giám
đốc thẩm và thi hành án hình
sự cần áp dụng Bộ luật Hình sự năm 2015 như sau:
a) Tất cả các điều khoản của Bộ luật Hình
sự năm 2015 được áp dụng để
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đối với người thực hiện hành
vi phạm tội từ 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018;
b) Các điều khoản của Bộ luật Hình sự năm
2015 xóa bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng nặng; quy định hình
phạt nhẹ hơn, tình tiết giảm nhẹ mới; miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt,
giảm hình phạt, xóa án tích và các quy định khác có lợi cho người phạm tội thì
được áp dụng đối với cả những
hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018 mà sau
thời điểm đó mới bị phát hiện, đang bị điều tra, truy tố, xét xử hoặc đối với
người đang được xét giảm thời
hạn chấp hành hình phạt, xóa án tích;
c) Tội phạm mới quy định tại các Điều 147, 154, 167, 187, 212, 213, 214, 215, 216, 217, 217a, 218,
219, 220, 221, 222, 223, 224, 230, 234, 238, 285, 291, 293, 294, 297, 301, 302,
336, 348, 388, 391, 393 và 418 của Bộ luật Hình sự năm 2015; các điều luật
bổ sung hành vi phạm tội mới, các điều luật quy định một hình phạt mới, một
hình phạt nặng hơn, một tình tiết tăng nặng mới; các điều luật quy định hạn chế
phạm vi miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án tích và các quy định khác không có lợi
cho người phạm tội thì không áp dụng đối với những hành vi phạm tội xảy ra
trước 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018 mà sau thời điểm đó mới bị phát
hiện, đang bị điều tra, truy tố, xét xử hoặc đối với người đang được xét giảm
thời hạn chấp hành hình phạt, xóa án tích; trong trường hợp này, vẫn áp dụng
quy định tương ứng của các văn bản quy phạm pháp luật về hình sự có hiệu lực
trước 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018 để giải quyết;
d) Các điều luật mới quy định tội được
tách ra từ các tội ghép trong Bộ luật Hình sự số 15/1999/QH10 đã được sửa đổi,
bổ sung một số điều theo Luật số 37/2009/QH12 (sau đây gọi Bộ luật Hình sự năm
1999), nếu có lợi cho người phạm tội thì được áp dụng đối với cả những hành vi
phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018 để giải quyết;
nếu không có lợi cho người phạm tội thì vẫn áp dụng quy định tương ứng của các
văn bản quy phạm pháp luật về hình sự có hiệu lực trước 0 giờ 00 phút ngày 01
tháng 01 năm 2018 để giải quyết;
đ) Các tình tiết “gây hậu quả nghiêm
trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”, “số
lượng lớn”, “số lượng rất lớn”, “số lượng đặc biệt lớn”, “thu lợi bất chính
lớn”, “thu lợi bất chính rất lớn”, “thu lợi bất chính đặc biệt lớn”, “đất có
diện tích lớn”, “đất có diện tích rất lớn”, “đất có diện tích đặc biệt lớn”,
“giá trị lớn”, “giá trị rất lớn”, “giá trị đặc biệt lớn”, “quy mô lớn” của Bộ
luật Hình sự năm 1999 đã được áp dụng để khởi tố bị can trước 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018 thì vẫn áp
dụng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 để khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, trừ trường
hợp quy định tại điểm d khoản 1 Điều 2 của Nghị quyết số 41;
e) Đối với hành vi hoạt động phỉ quy định tại Điều 83,
hành vi đăng ký kết hôn trái pháp luật quy định tại Điều 149,
hành vi kinh doanh trái phép quy định tại Điều 159, hành vi
cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng
quy định tại Điều 165 của Bộ luật Hình sự năm 1999 xảy ra
trước 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018 mà sau thời điểm đó vụ án đang trong quá trình điều tra,
truy tố, xét xử thì tiếp tục áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 để
xử lý; trường hợp vụ án đã
được xét xử và đã có bản án, quyết định của Tòa án thì không được căn cứ vào
việc Bộ luật Hình sự năm 2015 không quy định tội danh hoạt động phỉ, tội danh
đăng ký kết hôn trái pháp luật, tội danh kinh doanh trái phép, tội danh cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản
lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng để kháng cáo, kháng nghị theo hướng không phạm tội. Trường hợp người bị kết
án đang chấp hành án về tội hoạt động phỉ, tội đăng ký kết hôn trái pháp luật,
tội kinh doanh trái phép, tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý
kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã chấp hành xong bản án thì vẫn áp dụng quy định tương ứng của các văn
bản quy phạm pháp luật về hình sự có hiệu lực trước 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng
01 năm 2018 để giải quyết; nếu sau thời điểm 0 giờ 00 phút ngày 01
tháng 01 năm 2018 mới bị phát hiện thì không khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
về tội hoạt động phỉ quy định tại Điều 83, tội đăng ký kết
hôn trái pháp luật quy định tại Điều 149, tội kinh doanh
trái phép quy định tại Điều 159, tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh
tế gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại Điều 165 của Bộ luật
Hình sự năm 1999 mà áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về các
tội danh tương ứng để khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử;
g) Đối với những hành vi phạm tội đã có
bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật trước 0 giờ 00 phút ngày
01 tháng 01 năm 2018 thì không được căn cứ vào những quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 có nội dung
khác so với các điều luật đã được áp dụng khi tuyên án để kháng nghị giám đốc thẩm; trường hợp kháng nghị dựa vào căn cứ khác hoặc
đã kháng nghị trước ngày 01 tháng 01 năm 2018 thì việc xét xử giám đốc thẩm phải tuân theo quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều 2 của Nghị quyết số 41;
h) Các quy định về trách nhiệm hình sự đối
với pháp nhân thương mại tại Bộ luật Hình sự năm 2015 không áp dụng đối với
những hành vi phạm tội của pháp nhân thương mại xảy ra trước 0 giờ 00 phút ngày
01 tháng 01 năm 2018.
2. Theo quy định tại điểm d, điểm đ
khoản 1 Điều 377 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì trong mọi trường hợp người có
chức vụ, quyền hạn lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện việc không ra lệnh,
quyết định gia hạn tạm giữ, tạm giam hoặc không thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giữ, tạm giam khi hết thời
hạn tạm giữ, tạm giam dẫn đến
người bị tạm giữ, tạm giam bị giam, giữ quá hạn đều phải chịu trách nhiệm hình
sự. Do đó, trong quá trình giải quyết vụ án hình sự các đồng chí Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán và Hội đồng xét xử các cấp phải hết sức lưu ý, không để xảy ra tình trạng do sơ suất dẫn đến việc giam,
giữ không có Quyết định tạm giữ, tạm giam.
Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng
chí Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp, Thủ trưởng các đơn vị
thuộc Tòa án nhân dân tối cao ngay khi nhận được Công văn này cần tổ chức triển
khai, quán triệt thực hiện nghiêm túc trong cơ quan, đơn vị mình. Trong quá
trình thực hiện nếu có vướng mắc thì báo cáo Tòa án nhân dân tối cao (thông qua
Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học) để có sự giải thích, hướng dẫn kịp thời./.
Nơi nhận: - Như trên; - Chánh án TANDTC (để báo cáo); - Các Phó Chánh án TANDTC; - Các Thẩm phán TANDTC; - Cổng TTĐT TANDTC (để đăng tải); - Lưu: VT, PC&QLKH. |
KT.
CHÁNH ÁN
PHÓ CHÁNH ÁN Nguyễn Trí Tuệ |