Án lệ số 07/2016/AL về công nhận hợp đồng mua bán nhà được xác lập trước ngày 01-7-1991.
Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua
ngày 17 tháng 10 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17
tháng 10 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Nguồn án lệ:
Quyết định giám đốc
thẩm số 126/2013/DS-GĐT ngày 23-9-2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao về vụ án dân sự “Tranh chấp quyền sở hữu, sử dụng nhà” tại thành phố Hà Nội
giữa nguyên đơn là các ông, bà Nguyễn Đình Sông,
Nguyễn Thị Hồng, Nguyễn Thị Hương với bị đơn là các ông, bà Đỗ Trọng Thành, Đỗ
Thị Nguyệt, Vương Chí Tường, Vương Chí Thắng, Vương Bích Vân, Vương Bích Hợp;
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm các ông, bà Nguyễn Thị Lan, Nguyễn
Thị Hay, Tô Thị Lâm, Nguyễn Đình Uân, Nguyễn Thị Hợp, Nguyễn Đình Hòa, Nguyễn
Thị Minh Nguyệt, Trần Thị Bích, Vũ Đình Hậu.
Vị
trí nội dung án lệ:
Đoạn 4 phần “Xét thấy”
của quyết định giám đốc thẩm nêu trên.
Khái quát nội dung của án lệ:
- Tình
huống án lệ:
Hợp
đồng mua bán nhà được lập thành văn bản trước ngày 01-7-1991, có chữ ký của bên
bán, ghi rõ bên bán đã nhận đủ tiền, bên mua tuy chưa ký tên trên hợp đồng
nhưng là người giữ hợp đồng và đã quản lý, sử dụng nhà ở ổn định trong thời
gian dài mà bên bán không có tranh chấp đòi tiền mua nhà.
- Giải
pháp pháp lý:
Trường hợp này, hợp đồng
có giá trị xác định bên mua đã trả đủ tiền cho bên bán và ý chí của bên mua đồng
ý với hợp đồng mua bán nhà đó, hợp đồng mua bán nhà được công nhận.
Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:
- Các điều 81, 82, 83
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (tương ứng với các điều 93, 94, 95 Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2015);
- Nghị quyết số
58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20-8-1998 của Ủy ban thường
vụ Quốc hội về giao dịch
dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1 tháng 7 năm 1991.
Từ
khóa của án lệ:
“Hợp đồng mua bán
nhà”; “Một bên không ký tên trong hợp đồng”; “Xác định chứng cứ”.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện ngày 06-3-2006 và trong quá trình giải
quyết vụ án, nguyên đơn là ông Nguyễn Đình Sông trình bày: Bố ông là cụ Nguyễn
Đình Chiện (chết năm 1998), mẹ ông là cụ Nguyễn Thị Mở (chết năm 2005). Bố mẹ
ông có 04 người con gồm ông, bà Nguyễn Thị Hồng, bà Nguyễn Thị Hương, bà Nguyễn
Thị Lan. Trước đây gia đình ông ở số 2 Hàng Bún, còn bác ông là Nguyễn Đình Nhuần
ở số 10 Hàng Bún. Khi đi sơ tán về thì nhà của bác bị Nhà nước lấy giao cho người
khác sử dụng, nên bố ông đã nhường nhà số 2 Hàng Bún cho cụ Nhuần ở, gia đình
ông đi thuê nhà, ông Đỗ Trọng Thành là người ký hợp đồng cho bố ông thuê tầng 2
nhà 19 phố Thuốc Bắc ngày 01-02-1972. Nhà 19 Thuốc Bắc thuộc quyền sở hữu của
05 anh chị em ông Thành gồm ông Đỗ Trọng Thành, bà Đỗ Thị Ngà, bà Đỗ Song Toàn,
bà Đỗ Thị Nguyệt, ông Đỗ Trọng Cao. Do ông Cao cần tiền chữa bệnh nên đã bán 01
buồng 38m2 tầng 2 nhà 19 Thuốc Bắc cho gia đình ông, hợp đồng ông
Cao ký bán không ghi ngày tháng năm, giá bán là 6550 đồng, ông Cao đã nhận đủ
tiền. Khi ông Cao bán gian buồng 38m2 có đưa cho bố ông bằng khoán
nhà 19 Thuốc Bắc, trong bằng khoán nói rõ ông Cao được hưởng 8/12 phần căn nhà,
còn ông Thành, bà Ngà, bà Nguyệt, bà Toàn được hưởng 4/12 phần căn nhà; tầng 1
căn nhà 19 Thuốc Bắc thì trước đó anh em ông Thành đã bán cho vợ chồng ông Vũ
Đình Tiệp, bà Trần Thị Bích; ông Cao sửa gian bếp 07m2 tầng 2 để ở.
Sau khi ông Cao chết ngày 05-11-1972 thì anh em ông Thành, bà Ngà, bà Nguyệt đã
ký bán nốt 07m2 tầng 2 nhà 19 Thuốc Bắc cho gia đình ông giá 3000 đồng
và bên bán đã hợp thức hóa bằng hợp đồng bán đứt tầng 2 ngày 05-11-1972 là ngày
ông Cao chết. Anh em ông Thành cùng ký tên vào văn tự ghi rõ bên bán đã nhận đủ
tiền. Ông Thành đã giao cả giấy ủy quyền của ông Cao viết ngày 09-9-1972 có nội
dung ông Cao là chủ sở hữu nhà 19 Thuốc Bắc, do bị bệnh nên viết ủy quyền phòng
khi bị mất, để ông Thành có quyền thay ông Cao bán gian buồng phụ thuộc nhà 19
Thuốc Bắc. Giấy tờ mua bán 02 gian nhà tầng 2 nhà 19 Thuốc Bắc gia đình ông giữ nên cha mẹ ông ký vào giấy này lúc nào
cũng được. Ông Thành cho rằng cha mẹ
ông không ký vào giấy mua bán để cho rằng chưa trả tiền là không đúng.
Cụ Nhuần đã chết năm 2000, vợ của cụ Nhuần là cụ Tô Thị
Lâm và các con của cụ Nhuần là các ông, bà Nguyễn Đình Uân, Nguyễn Đình Hòa,
Nguyễn Đình Hợp, Nguyễn Thị Minh Nguyệt đều xác nhận là cụ Chiện mua căn buồng
tầng 2 của ông Cao chứ không phải cụ Nhuần mua, cụ Nhuần chỉ là người đứng tên
hộ.
Gia đình ông Thành (ở tại nhà 17 Thuốc Bắc) luôn gây khó
khăn trong sinh hoạt cho gia đình ông. Ông Thành sang chiếm nóc tầng 2 nhà 19
Thuốc Bắc nên cha ông có sang trao đổi với ông Thành không được sử dụng nóc nhà
nhưng ông Thành không nghe, nên hai bên buộc
phải có văn bản ngày 20-12-1987 đồng ý cho ông Thành được sử dụng chung
nóc nhà nhưng hai gia đình ngày càng mâu thuẫn. Sau đó gia đình ông đi kê khai
sang tên sở hữu tầng 2 nhà 19 Thuốc Bắc nhưng ông Thành luôn gây khó khăn. Nay
ông yêu cầu Tòa án công nhận hợp đồng mua bán tầng 2 nhà 19 Thuốc Bắc.
Ngoài ra, ông cũng yêu cầu một số vấn đề sau:
- Nhà 19 Thuốc Bắc tầng 1 ông Thành đã bán cho gia đình
ông Tiệp, tầng 2 đã bán cho gia đình ông, nên ông Thành không còn quyền lợi gì
của nhà 19 Thuốc Bắc, do đó ông Thành không được sử dụng nóc nhà tầng 2 và khu
phụ nhà 19 Thuốc Bắc.
Gia đình ông mua tầng 2, khi đó thỏa thuận miệng là đi ra
đường bằng lối đi qua tầng 1 nhà 17 Thuốc Bắc của ông Thành, nên ông yêu cầu
ông Thành không được để hàng hóa tại lối đi từ đường Hàng Cá vào đi qua nhà 17,
19 Thuốc Bắc lên tầng 2 nhà 19 Thuốc Bắc.
- Yêu cầu ông Thành bồi thường thiệt hại do đã chiếm hữu
nóc nhà, sử dụng lối đi để hàng hóa từ năm 1987 đến nay với số tiền là
540.000.000 đồng (2.500.000đ/tháng x 18 năm).
- Bồi thường thương tích cho ông và vợ ông do con ông
Thành gây ra là 5.000.000đ/người.
- Bồi thường thiệt hại về tinh thần do ông Thành tranh chấp
gây bất ổn cho cuộc sống của gia đình ông, số tiền là 800.000.000 đồng.
- Ông Thành phải trả chi phí cải tạo nóc nhà ông do ông
Thành để đồ đạc làm hỏng, dự kiến sửa hết 120.000.000 đồng.
- Việc khiếu kiện kéo dài làm mất việc làm của ông do ông
Thành gây ra nên ông Thành phải trả 108.000.000 đồng (12.000.000đ/năm x 9 năm).
Bị đơn là ông Đỗ Trọng Thành trình
bày: Nhà 19 Thuốc Bắc mang bằng khoán điền thổ số 1577 khu Đồng Xuân, diện tích
69m2 do cụ Đỗ Huy Ngọc và cụ Lê Thị Hữu (là cha mẹ của ông) đứng tên
sở hữu; ngày 21-4-1959 đã sang tên cho các con được thừa hưởng, cụ thể: ông Cao
hưởng 8/12, còn lại 04 người con là bà Nga, bà Nguyệt, bà
Toàn và ông hưởng chung 4/12 phần căn nhà. Năm 1971, các anh chị
em ông có cho vợ chồng cụ Chiện, cụ Mở (là bố mẹ ông Sông) thuê tầng 2 nhà 19
Thuốc Bắc. Sau đó cũng năm 1971, ông Cao bán đứt 01 buồng 38m2 nhà
19 Thuốc Bắc cho cụ Nguyễn Đình Nhuần, nhưng cụ Chiện lại ký thay trong giấy
mua bán, giá bán là 6550 đồng, giấy không ghi ngày tháng năm.
Ngày 09-9-1972, ông Cao lập giấy ủy
quyền cho ông bán 01 buồng 7,8m2 tầng 2 nhà 19 Thuốc Bắc. Ngày 05-11-1972,
ông Cao chết. Căn cứ giấy ủy quyền của ông Cao, ông đã viết giấy bán buồng 07m2
cho cụ Chiện, nhưng cụ Chiện đề nghị ông viết gộp cả buồng 38m2 mà cụ
Chiện đã mua của ông Cao, nên ông đã viết văn tự bán đứt tầng 2, chị em ông đã
ký vào văn tự, nhưng khi đưa văn tự sang cho cụ Chiện, cụ Mở ký thì cụ Nhuần có
mặt ở đó mắng và không cho vợ chồng cụ Chiện ký, nên vợ chồng cụ Chiện không ký
được. Ông không đồng ý yêu cầu của ông Sông vì ông Sông chỉ ở nhờ nhà của cụ
Nhuần.
Ông Thành còn có lời khai khác, cụ
thể là: Ông Cao bán 01 buồng nhưng đến năm 1998 ông mới biết và khi đó ông mới
biết ông có phần trong nhà này, trước đó ông hiểu là nhà thuộc phần của ông
Cao. Ông Cao có ủy quyền cho ông bán buồng 07m2, trong giấy mua bán
viết bên mua đã nhận nhà, bên bán đã giao tiền, nhưng thống nhất bên mua ký mới
giao tiền. Ông Cao ủy quyền cho ông là sai vì đây là tài sản chung của mấy anh
chị em; nhà 19 Thuốc Bắc ông chưa kê khai vì còn đang tranh chấp; nhà 17 Thuốc
Bắc ông đã kê khai là trên cơ sở ông được hưởng theo bản án chia thừa kế năm
1992. Giấy ông Cao bán nhà cho cụ Nhuần 38m2 ông áng chừng viết khoảng
năm 1971. Ông chỉ lưu bản chính ông Cao bán nhà cho cụ Nhuần, còn các văn bản
khác ông không giữ. Khi bán nhà cho cụ Nhuần, ông Cao có đưa bằng khoán nhà 19
Thuốc Bắc cho cụ Nhuần.
Ông không đồng ý yêu cầu của ông
Sông vì không có việc mua bán tầng 2 nhà 19 Thuốc Bắc, bố mẹ ông Sông chưa ký
vào giấy mua bán và chưa trả tiền; hợp đồng mua bán nhà không hợp pháp, nên ông
Sông không có quyền đòi nóc nhà tầng 2; lối đi qua tầng 1 nhà 17 Thuốc Bắc, ông
Sông chỉ đi nhờ (Bl 586). Diện tích phụ nhà 19 Thuốc Bắc, anh chị em ông không
bán nên ông vẫn có quyền sử dụng. Ông cũng không chấp nhận yêu cầu của ông Sông
đòi bồi thường thiệt hại về thu nhập vì ông Sông là người tranh chấp chứ không
phải ông. Đánh nhau thì hai bên cũng có thương tích, Công an không giải quyết
gì nên ông không đồng ý bồi thường.
Ngày 07-4-2009, ông Thành có đơn phản tố đề nghị gia đình
ông Sông phải đi ra đường trên diện tích nhà 19 Thuốc Bắc, có nghĩa là nhà tầng
1 số 19 Thuốc Bắc phải mở lối đi ra đường cho gia đình ông Sông. Nhà 17 Thuốc Bắc
thuộc quyền sở hữu của ông, khi anh chị em ông bán tầng 1 nhà 19 Thuốc Bắc cho
gia đình ông Tiệp cũng đã ghi rõ ở như diện tích đang ở, trừ lối đi.
Ngày 23-9-2009, ông Thành có đơn xin rút yêu cầu phản tố
về lối đi.
- Bà Đỗ Thị Nguyệt và các con bà Đỗ Thị Nga là Vương Chí
Tường, Vương Chí Thắng, Vương Bích Vân, Vương Bích Hợp có đơn trình bày: Buồng
38m2 ông Cao viết bán, nhưng nhà thuộc các đồng sở hữu nên không có
quyền, còn bà Ngà, bà Nguyệt có ký bán buồng 7m2 cho cụ Chiện nhưng
bên mua chưa trả tiền nên yêu cầu trả lại nhà.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Cụ Tô Thị Lâm trình
bày: Chồng cụ là cụ Nguyễn Đình Nhuần (chết năm 2000). Trước đây vợ chồng cụ sống
ở số 10 phố Hàng Bún, vợ chồng cụ Chiện sống cùng vợ chồng cụ. Năm 1970, vợ chồng
cụ Chiện chuyển sang nhà số 19 Thuốc Bắc ở. Vợ chồng cụ Chiện mua nhà thế nào cụ
không biết, cụ chỉ nhớ là năm 1972 cụ Nhuần về nói với cụ là cụ Chiện mua nhà,
nhờ cụ Nhuần đứng tên. Nhà 19 Thuốc Bắc là do vợ chồng cụ Chiện mua và trả tiền,
vợ chồng cụ không tham gia giao dịch mua bán với ông Thành, gia đình cụ cũng
không có quyền lợi gì liên quan đến nhà 19 Thuốc Bắc.
- Các con của cụ Lâm là ông Nguyễn Đình Uân, ông Nguyễn
Đình Hòa, bà Nguyễn Quỳnh Hợp, bà Nguyễn Thị Minh Nguyệt trình bày nhất trí với
lời khai của cụ Lâm.
- Bà Trần Thị Bích, ông Vũ Đình Hậu trình bày: Ông, bà
đang ở tầng 1 nhà 19 Thuốc Bắc. Ông Thành không có quyền yêu cầu gia đình bà phải
mở lối đi cho gia đình ông Sông ở tầng 2; ông Thành đã có đơn xin rút yêu cầu
phản tố về lối đi, ông, bà không có ý kiến gì.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 78/DSST ngày 21-11-2007, Tòa
án nhân dân thành phố Hà Nội quyết định:
- Bác yêu cầu của ông Nguyễn Đình Sông.
Ngày 21-11-2007, ông Nguyễn Đình Sông có đơn kháng cáo.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 121/2008/DSPT ngày
30-6-2008, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội quyết định: Hủy án
sơ thẩm, giao sơ thẩm giải quyết lại.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 52/2009/DSST ngày 29-9-2009,
Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội quyết định:
1. Không chấp nhận yêu cầu công nhận hợp đồng mua bán
toàn bộ tầng 2 nhà 19 Thuốc Bắc của nguyên đơn.
2. Chấp nhận yêu cầu của ông Sông về việc buộc ông Thành
phải dọn toàn bộ đồ đạc, cây cảnh trên nóc tầng 2 nhà 19 Thuốc Bắc chuyển dọn về
nhà 17 Thuốc Bắc.
Gia đình ông Thành và gia đình ông Sông sử dụng nóc nhà tầng
2 nhà 19 Thuốc Bắc đúng như cam kết ký ngày 20-12-1987.
3. Không chấp nhận yêu cầu của ông Sông không cho gia
đình ông Thành sử dụng diện tích phụ, sân tại nhà 19 Thuốc Bắc.
4. Xác định lối đi từ phố Hàng Cá đi vào nằm trên hai diện
tích đất của nhà 17, 19 Thuốc Bắc, không ai được để hàng hóa, vật dụng cản trở
việc đi lại.
5. Không chấp nhận các yêu cầu của ông Sông đòi bồi thường
thiệt hại đối với ông Thành.
6. Bác các yêu cầu khác của các bên đương sự.
7. Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu phản tố của ông
Thành.
Ngày 01-10-2009, ông Nguyễn Đình Sông có đơn kháng cáo
không đồng ý quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm.
Ngày 12-10-2009, ông Đỗ Trọng Thành có đơn kháng cáo
không đồng ý quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm về phần lối đi, đề nghị xác định
lối đi này là tạm thời.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 86/2010/DS-PT ngày
18-5-2010, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội quyết định: Y án sơ
thẩm về giải quyết hợp đồng mua bán nhà và các yêu cầu khác, hủy một phần bản
án sơ thẩm giao sơ thẩm giải quyết lại về phần lối đi qua nhà 17 Thuốc Bắc.
Ngày 20-7-2010, ông Nguyễn Đình Sông có đơn đề nghị giám
đốc thẩm, xin công nhận hợp đồng mua bán tầng 2 nhà 19 Thuốc Bắc.
Tại Quyết định số 148/2013/KN-DS
ngày 11-4-2013, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị Bản án dân sự
phúc thẩm số 86/2010/DS-PT ngày 18-5-2010 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối
cao tại Hà Nội; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám
đốc thẩm hủy Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và Bản án dân sự sơ thẩm số
52/2009/DS-ST ngày 29-9-2009 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội; giao hồ sơ vụ
án cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của
pháp luật.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, Đại diện Viện kiểm sát nhân
dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng
nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, nhưng theo hướng hủy Bản án dân sự
phúc thẩm số 86/2010/DS-PT ngày 18-5-2010 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối
cao tại Hà Nội, giao Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại.
Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao nhận định:
Theo lời khai của
nguyên đơn, bị đơn và các tài liệu trong hồ sơ vụ án thì căn nhà số 19 phố Thuốc
Bắc, phường Hàng Bồ, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội thuộc quyền sở hữu của vợ chồng cụ
Đỗ Huy Ngọc và cụ Lê Thị Hữu đã sang tên thừa kế cho các con là ông Đỗ Trọng
Cao (chết năm 1972, không vợ con) được hưởng 8/12 phần, còn lại bà Đỗ Thị Ngà
(tức Nga), bà Đỗ Thị Nguyệt, bà Đỗ Thị Song Toàn (chết năm 1963, không chồng
con), ông Đỗ Trọng Thành hưởng chung 4/12 phần. Ngày 01-7-1971, ông Thành ký hợp
đồng cho gia đình cụ Nguyễn Đình Nhuần (là bác ruột ông Nguyễn Đình Sông, chết
năm 2000) và vợ chồng cụ Nguyễn Đình Chiện (là cha của ông Sông, chết năm 1998)
thuê gian buồng tầng 2 nhà 19 phố Thuốc Bắc, diện tích 39,36m2 để lấy
tiền chữa bệnh cho ông Cao, đã nhận trước 2000 đồng.
Tại
“Giấy bán đứt một buồng ở” (không ghi ngày tháng năm nhưng ông Thành thừa nhận
văn bản này viết khoảng năm 1971), ông Cao đã bán cho cụ Nhuần 01 gian buồng tầng
2 nhà 19 phố Thuốc Bắc (không ghi diện tích) giá 6550 đồng, bên bán đã nhận đủ
tiền, ghi là cụ Chiện đại diện mua bán và ký thay cụ Nhuần. Ông Thành cho rằng
gian nhà bán này chính là gian nhà thuê nêu trên và bán cho cụ Nhuần, không phải
bán cho cụ Chiện. Tuy nhiên, cụ Tô Thị Lâm và các ông, bà Nguyễn Đình Uân, Nguyễn
Đình Hòa, Nguyễn Quỳnh Hợp, Nguyễn Thị Minh Nguyệt (là vợ, con cụ Nhuần) đều
xác định cụ Chiện trực tiếp giao dịch và trả tiền, cụ Nhuần chỉ đứng tên hộ cụ
Chiện trên hợp đồng mua nhà do ông Cao bán. Do đó, có cơ sở xác định cụ Chiện
là người mua gian buồng này.
Ngày 09-9-1972, ông
Cao viết giấy ủy quyền để ông Thành bán căn buồng phụ ông Cao đang ở. Ngày
05-11-1972, ông Cao chết không để lại di chúc. Cùng ngày 05-11-1972, ông Thành,
bà Ngà, bà Nguyệt ký “Văn tự bán đứt tầng 2 số nhà 19 phố Thuốc Bắc” có nội
dung bán cho vợ chồng cụ Chiện buồng chính 38,07m2, buồng phụ 7,095m2,
tổng là 45,165m2, giá 3000 đồng, bên bán đã nhận đủ tiền, bên mua đã
nhận sử dụng diện tích tầng 2 và đang ở; văn tự có đủ 3 người gồm ông Thành, bà
Ngà, bà Nguyệt là bên bán ký tên, còn bên mua ghi tên cụ Chiện, cụ Mở nhưng
không ký.
Khi tranh chấp, ông
Sông xuất trình được 02 văn tự bán nhà nêu trên và cả giấy ông Cao ủy quyền cho
ông Thành bán nhà. Thực tế, gia đình cụ Chiện đã quản lý cả 02 gian buồng tầng
2 nhà 19 phố Thuốc Bắc của gia đình ông Thành từ năm 1972 đến nay, gia đình ông
Thành ở số nhà 17 phố Thuốc Bắc liền kề không tranh chấp đòi tiền thuê nhà hoặc
tiền mua nhà. Nội dung “Văn tự bán đứt tầng 2 số nhà 19 phố Thuốc Bắc” đều ghi
rõ bên bán đã nhận đủ tiền, không có việc hai bên thỏa thuận sẽ lập giấy trả tiền
riêng, đây chính là biên nhận mà bên bán xác nhận là bên mua đã trả tiền. Bên
mua chưa ký vào văn bản mua bán, nhưng văn bản này bên mua là người giữ, nên vẫn
có giá trị xác định nghĩa vụ của bên bán về việc đã nhận tiền. Tòa án cấp sơ thẩm,
phúc thẩm cho rằng bên mua chưa ký tên vào văn bản mua bán nhà và không chứng
minh được đã trả tiền để bác yêu cầu công nhận hợp đồng mua bán nhà của nguyên
đơn là chưa đảm bảo quyền lợi của nguyên đơn.
Giao dịch mua bán nhà
ở giữa các anh chị em ông Thành và vợ chồng cụ Chiện, cụ Mở được xác lập trước
ngày 01-7-1991, nên cần phải áp dụng Nghị quyết 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày
20-8-1998 của Ủy ban thường vụ Quốc hội để giải quyết vụ án. Bà Nguyễn Thị Lan
(con cụ Chiện, cụ Mở) tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan là do thuộc diện thừa kế di sản của cụ Chiện, cụ Mở mà không tham gia
vào giao dịch này. Bà Lan mới định cư tại Cộng hòa Séc từ năm 1997, việc mua
bán này không phải là giao dịch nhà ở trước ngày 01-7-1991 có người định cư ở
nước ngoài trước ngày 01-7-1991 tham gia, nên Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm căn
cứ Nghị quyết 1037/2006/NQ-UBTVQH11 ngày 27-7-2006 về giao dịch dân sự về nhà ở
được xác lập trước ngày 01-7-1991 có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham
gia để giải quyết vụ án là chưa đúng.
Vì các lẽ trên, căn cứ
vào khoản 3 Điều 291, khoản 3 Điều 297, khoản 2 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự
(đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 65/2011/QH12 ngày 29-3-2011 của Quốc hội);
QUYẾT ĐỊNH:
Hủy
toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 86/2010/DS-PT ngày 18-5-2010 của Tòa phúc thẩm
Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội về vụ án “Tranh chấp quyền sở hữu, sử dụng nhà” giữa nguyên đơn là ông Nguyễn Đình Sông, bà
Nguyễn Thị Hồng, bà Nguyễn Thị Hương với bị đơn là ông Đỗ Trọng Thành, bà Đỗ Thị
Nguyệt, anh Vương Chí Tường, anh Vương Chí Thắng, chị Vương Bích Vân, chị Vương
Bích Hợp; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm 09 người.
Giao hồ sơ vụ án cho
Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm lại theo quy
định của pháp luật.
NỘI DUNG ÁN LỆ
“Khi tranh chấp, ông Sông xuất trình được 02 văn tự bán
nhà nêu trên và cả giấy ông Cao ủy quyền cho ông Thành bán nhà. Thực tế, gia
đình cụ Chiện đã quản lý cả 02 gian buồng tầng 2 nhà 19 phố Thuốc Bắc của gia
đình ông Thành từ năm 1972 đến nay, gia đình ông Thành ở số nhà 17 phố Thuốc Bắc
liền kề không tranh chấp đòi tiền thuê nhà hoặc tiền mua nhà. Nội dung “Văn tự
bán đứt tầng 2 số nhà 19 phố Thuốc Bắc” đều ghi rõ bên bán đã nhận đủ tiền,
không có việc hai bên thỏa thuận sẽ lập giấy trả tiền riêng, đây chính là biên
nhận mà bên bán xác nhận là bên mua đã trả tiền. Bên mua chưa ký vào văn bản
mua bán, nhưng văn bản này bên mua là người giữ, nên vẫn có giá trị xác định
nghĩa vụ của bên bán về việc đã nhận tiền. Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm cho rằng
bên mua chưa ký tên vào văn bản mua bán nhà và không chứng minh được đã trả tiền
để bác yêu cầu công nhận hợp đồng mua bán nhà của nguyên đơn là chưa đảm bảo
quyền lợi của nguyên đơn”.